Tên di sản : Đình Đồng Bào

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 4794/QĐ-UBND

Giới thiệu

Quy mô cấu trúc:

Đình Đồng Bào có địa thế cảnh quan đẹp, tọa lạc về hướng đông có kiến trúc hình chữ Nhất, với những giá trị độc đáo, là nơi thờ Thành Hoàng làng. Vì thế, nó gắn với không gian thiên nhiên, gắn với đời thường. Việc thờ Thành Hoàng làng là một trong những đặc điểm của tín ngưỡng người Việt, đồng thời sự phân bố không gian trong ngôi đình cũng là biểu hiện vừa mang tính tôn giáo, vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt cộng đồng. Không gian kiến trúc được bố trí như sau: Cổng đình, sân đình và nhà đại đình.

Cổng đình: Cổng gồm 2 trụ biểu vuông được ốp gạch men màu đỏ, mỗi cạnh kích thước 0,40m x 0,40m, cao 2,3m, hai trụ cách nhau 2,4m, trên có mái che bằng bê tông.

Sân đình: Sân lát gạch bát đỏ 0,20m x 0,20m, có kích thước: chiều dài 17,3m, rộng 14m.

Nhà đại đình: Nhà đại đình dựng theo hướng Đông, có kiến trúc hình chữ Nhất, nền cao hơn mặt sân là 0,20m.

Đình được cấu tạo 3 gian, dĩ chái có chiều dài 11m, chiều rộng 7,2m, diện tích 79,2m2.

Phía trước đình cả 3 gian trước kia để thông thoáng, nhưng đến những năm 1960, Hợp tác xã nông nghiệp xây cuốn cót 2 gian hồi, gian giữa để trống. Năm 1983, làng Đồng Bào dùng đình làm nhà văn hóa và nơi hội họp của làng, nên đã trổ 2 cửa sổ ở 2 gian đầu hồi, 1 cửa chính ở gian giữa, 1 cửa đầu đốc phía nam. Cửa sổ cao 0,95m, rộng 0,60m gồm 2 cánh cửa gỗ. Cửa chính cao 1,7m, rộng 1,6m, gồm 2 cánh cửa sắt. Cửa tường đốc phía nam cao 2,1m, rộng 1,1m, 2 cánh cửa gỗ, dáng của kiểu thượng song hạ bản.

Kích thước theo chiều dọc như sau:

Dĩ đốc bắc rộng: 1,1m;

Gian thứ nhất rộng: 2,6m;

Gian thứ hai rộng: 3,4m;

Gian thứ hai rộng: 2,6m;

Dĩ đốc nam rộng: 1,1m.

Cấu trúc ngang gồm 4 hàng chân cột, hai hàng cột cái trước và sau, hai hàng cột quân trước và sau.

Khoảng cách từ giọt tranh đến cột quân trước: 1,4m;

Khoảng cách từ cột quân đến cột cái trước: 1,2m;

Khoảng cách từ cột cái trước đến cột cái sau: 2,5m;

Khoảng cách từ cột cái sau đến cột quân: 1,2m;

Khoảng cách từ cột quan đến tường hậu: 0,9m;

Riêng hai vì 1, 4 không có hàng cột quân trước, sau, cho nên khoảng cách từ cột cái sau đến tường hậu: 2,1m và khoảng cách từ cột cái trước đến bờ hiện: 2,1m.

Hệ thống cột có kích thước: Cột cái có chiều cao: 4,95m, đường kính: 0,89m; Cột quân có chiều cao: 3,05m, đường kính: 0,73m; Kích thước chân tảng cột cái 0,45m x 0,45m; Kích thước chân tảng cột quân 0,42m x 0,42m; Từ thượng lương đến sàn nền nhà: 4,85m.

Tổng thể ngôi đình có 16 cột gỗ: 8 cột cái, gồm 2 hàng cột cái trước, sau; 6 cột quân gồm 4 cột quân trước và 2 cột quân ở vì 2, vì 3, trốn 2 cột quân ở vì 1 và vì 4. Đình gồm 3 gian, 4 vì kèo gỗ, mỗi vì có 4 cột có kết cấu cân đối và đối xứng nhau, gồm 2 gian đầu đối xứng với hai gian cuối, đối xứng nhau qua gian giữa, các vì kèo liên kết với nhau theo kiểu giá chiêng, chồng rường, kẻ hiên vì 1 đối xứng với vì 4 vì 2 đối xứng vì 3. Tất cả các vì kèo đều liên kết nhau theo một kiểu kết cấu kiến trúc bộ khung gỗ chắc chắn.

Kết cấu vì kèo (vì 2, 3) giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết, chủ yếu kiến trúc theo kiểu “gia chiêng, chồng rường, kẻ hiên trước, bẩy sau”. Ở một bộ vì liên kết chính bắt đầu từ hai cột cái: hai đầu cột này được bổ mộng câu đầu ăn vào cột cái (ở đây câu đầu có nhiệm vụ như một quá giang). Trên thân câu đầu là hai trụ đứng trên đấu vuông, trên thân hai trụ đứng này là các con rường ngang cụt ăn mộng vào trụ đứng nằm trên các đấu vuông có nhiệm vụ đỡ hoành tải ở mái trước và mái sau. Nối hai trụ đứng này với nhau là một con rường dài nằm trên đầu hai trụ đứng, có nhiệm vụ đỡ cả mái trước, mái sau (còn gọi là rường bụng lợn), phía trên cùng là con rường dọc đỡ bát đấu đỡ thượng lương.

Từ dưới câu đầu trở xuống là hệ thống chồng rường, kẻ hiện trước bẩy sau. Kẻ được ăn mộng vào đầu cột quân để đỡ xà nách. Xà nách ăn mộng vào 1/3 thân cột cái đỡ trụ, các con rường và hệ thống mái. Để đỡ xà nách này là kẻ bấy chạy ra tường hậu ở mái sau và tường hiện ở mái trước. Trên lưng các kẻ này là hệ thống lá dong đục lỗ tròn để hoành tải chạy qua làm nhiệm vụ đỡ mái.

Kết cấu (vì 1, 4) là hai vì hồi, được cấu tạo giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết “giá chiêng, chồng rường, kẻ hiên”.

Từ ngoài vào cột quân là kẻ hiên, nối với cột quân trực tiếp làm nhiệm vụ để đỡ các hoành tải ở phía trên, không có cột hiên, kẻ hiên trực tiếp đứng trên tường đỡ mái hiên ở phía trước. Phần nối giữa cột cái với cột quân là xà nách, đầu xà nách ăn mộng vào 1/3 thân cột cái và đầu cột quân đỡ trụ, các con rường và hệ thống mái. Từ cột cái đến thượng lương mái trước được kết cấu theo kiểu con so chồng rường. Trên cùng là guốc đỡ thượng lương. Ở phần mái sau của vì 1, 4 đều trốn hàng cột quân cho nên không có bẩy sau mà 1/3 thân cột quân phía trên thực chất đảm nhiệm như một trụ đứng, đứng trên xà nách, bẩy sau được trang trí bằng tấm ván mê chạm khắc hình chữ vạn, lòng cúc hoa dây leo lòng qua tấm ván mê đỡ xà nách phụ, đồng thời đỡ trụ, các con rường và hệ thống mái. Từ đầu cột cái đến thượng lương được kết cấu như mái trước.

Toàn bộ rui, mè, hoành tải được làm bằng gỗ Tứ thiết, xà thượng, xà hạ, xà thế hoành được làm bằng gỗ hình dáng vuông vắn soi gờ chỉ. Bộ mái lợp ngói mũi hài; bờ dải xây vuông góc với bờ nóc chảy xuống phía dưới, trát vữa hồ trang trí đường giật cấp để chận mái, đắp vuông tạo thành bờ guột từ nóc đến mái hiên.

Nhìn chung, trên một vì, kết cấu kiến trúc tuân theo một quy luật đăng đối. Tuy nhiên những phần kiến trúc quan trọng của công trình như hệ thống cột, quá giang, hệ thống trụ đứng, xà lòng, xà nách, kẻ,...có tác dụng chịu lực (lực nén trọng lực của mái, lực giằng để liên kết các bộ phận của khung nhà).

Nghệ thuật chạm khắc: Đình Đồng Bào có không gian kiến trúc phong phú nên nghệ nhân có thể thể hiện được đề tài trang trí phủ trên các cấu kiện gỗ như trụ đứng, xà nách, xà hạ ở gian giữa, kẻ hiên, bây sau, các con rường.

Mảng chạm kênh “Lưỡng long chầu nguyệt” ở xà hạ giữa hai vì 2 và 3, phía trên ban thờ Thành Hoàng làng. Chạm khắc hình rồng vờn mây, thân rồng uốn lượn, bờm, mắt mũi to trông dữ tợn. Phong cách chạm có khối nổi cao, phần đầu rồng thoát ly hẳn với mặt phẳng kiến trúc khoảng 20cm và được gá ghép kết cấu kiến trúc toàn bộ bức chạm kiểu này nổi cao phủ kín cả một diện tích của bức phù điêu.

Tất cả các con rường ở bốn vì kèo đều chạm khắc hình lá cúc cách điệu, riêng hai tấm ván mê đặt phía trên xà lòng ở 1/2 vì 1 và 4 được trang trí hình hoa, lá cúc cách điệu, hình chim phượng.

Các kẻ hiện ở bốn vì đều được chạm hình các dây leo trên bề mặt kẻ.

Tất cả các mảng chạm khắc trên tấm ván mê, thanh xà, kẻ hiên, con rường thể hi��n đường nét mềm mại nhưng toát lên được thế mạnh của linh vật, cây cối hoa lá.

Thông qua ngôn ngữ biểu hiện chạm khắc gỗ của đình Đồng Bào chúng ta thấy được hình tượng chủ yếu là hoa, lá, rồng, phượng. Giúp chúng ta hiểu thêm không gian văn hóa làng, xã xứ Thanh. Những tư tưởng phản ánh của người xưa gửi gắm bằng ngôn ngữ điêu khắc trên gỗ.

Hệ thống thờ tự: Gian giữa là nơi thờ Thành Hoàng (gồm 1 ban thờ bằng gỗ dài 1,7m, cao 1,32m đặt bát hương).

Hình ảnh Đình Đồng Bào

Đình Đồng Bào

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật